Chuyển đến nội dung chính

Huyền thoại tình báo Xô viết

Huyền thoại tình báo Xô viết Rudolf Abel
Viliam Henrykhovich Fisher.

50 năm trước, ngày 14/10/1957, Tòa án Liên bang quận Đông New York bắt đầu vụ xét xử chấn động toàn cầu đối với đại tá tình báo đối ngoại Liên Xô Rudolf Abel, người bị buộc tội làm gián điệp.

Ông phải đối mặt với án tử hình hoặc nhẹ nhất cũng là án chung thân. Và chỉ đến khi kết thúc Chiến tranh Lạnh vào đầu những năm 1990, Cơ quan tình báo đối ngoại Nga mới công bố tên thật và sự nghiệp của Rudolf Abel, tên thật là Viliam Henrykhovich Fisher.

Tuổi trẻ lưu lạc

Viliam Henrykhovich Fisher, sinh ngày 11/7/1903, tại thành phố Newcastle upon Tyne (Anh) trong một gia đình di cư người Nga. Bố là người gốc Đức, thuộc tỉnh Yaravslav (Nga), còn mẹ là người ở thành phố Saratov. Cả hai người đều tích cực tham gia phong trào cách mạng nên họ bị chính quyền Sa hoàng đuổi ra khỏi nước Nga và cũng vì thế gia đình Fisher chuyển đến Anh định cư và vào năm 1903 sinh ra ông tại đây.

Thuở nhỏ Viliam là đứa trẻ trầm tính, ương ngạnh, rất kiên trì thực hiện mục đích của mình nhưng trung thực đến lạ lùng. Hoàn cảnh gia đình khó khăn, Viliam buộc phải rời trường học theo học nghề nhân viên đồ họa tại phòng thiết kế và vừa phải tự học chương trình của trường phổ thông. Ý chí mãnh liệt cùng với sự thông minh đã giúp Viliam thi đỗ trường Đại học tổng hợp vào năm 16 tuổi. Năm 1920, gia đình Fisher trở lại Nga.

Năm học thứ nhất ở trường Phương Đông học (1924) cũng là năm học cuối cùng của Viliam vì anh bị gọi nhập ngũ, phục vụ tại Trung đoàn thông tin tại Moscow. Sau đó Viliam được đào tạo tại học viện hàng không và vào năm 1927 được biên chế vào cơ quan an ninh. Dần dần, Viliam được lãnh đạo mạng lưới tình báo vô tuyến mật của Liên Xô giao những nhiệm vụ khó khăn và có 2 lần đi công tác mật tại nước ngoài.

Đến năm 1938, Viliam bị đuổi khỏi cơ quan an ninh mà không có một lời giải thích. Người ta cho rằng có lẽ là do lúc đó Bộ trưởng Nội vụ Beria không tin những cán bộ từng làm việc với "kẻ thù của dân tộc". Trở thành công dân bình thường, Viliam không thể kiếm được việc làm. Tuyệt vọng, ông quyết định mạo hiểm: viết thư gửi BCH Đảng Bôn-sê-vich. Người ta nghe ông và trước khi Thế chiến II nổ ra, Viliam được vào làm ở nhà máy chế tạo máy bay. Vào tháng 9.1941, người ta đề nghị Viliam quay trở lại ngành an ninh.

Chiến dịch "Berezino"

Trong thời gian Thế chiến II, Fisher làm việc tại Cục 4 Cơ quan an ninh Liên Xô, chuyên trách về hoạt động phá hoại của tình báo trên lãnh thổ bị chiếm đóng của Liên Xô. Trong giai đoạn này, nổi bật nhất là sự tham gia của ông vào chiến dịch "Berezino".

Trên lãnh thổ Belorussia đã được giải phóng, từ số tù binh Đức quốc xã người ta thành lập một phân đội không lớn lắm đóng giả việc lính Đức chiến đấu chống lại Hồng quân tại đây. Lãnh đạo của nhóm này thường xuyên bắt liên lạc với quân đội Đức và liên tục xin viện trợ. Kết quả là các đồ quân trang, quân dụng mà phía Đức thả xuống cho nhóm này như điện đài, đạn dược, súng ống, lương thực... đều rơi vào tay Hồng quân.

Sau đó Fisher lãnh đạo nhóm các điện đài viên Đức được thả dù xuống Berlin. Dưới sự kiểm soát của ông, "trò chơi điện tín" đã được triển khai. Một phần các tình báo viên của Đức bị đánh lừa, số khác thì bị tiêu diệt. Chiến dịch này kéo dài từ tháng 8/1944 cho đến tháng 5/1945.

Trong giai đoạn này, Fisher kết thân với Rudolf Abel Ivanovich - cũng là tình báo viên Xô Viết, cái tên của người này sau đó được dùng khi Fisher bị bắt.

Bí mật nguyên tử của Mỹ
Cha đẻ của Cục Tình báo Mỹ Allen Dalles trong cuốn sách Nghệ thuật tình báo viết rằng: "Tôi đã rất muốn để chúng ta có tại Matxcơva 3 - 4 người tầm cỡ như Abel".

Sau Thế chiến II, vào tháng 11.1948, bằng nhiều thủ thuật Viliam Fisher (mang bí danh Mark) được cử đến Mỹ hoạt động với thời gian kéo dài 14 năm. Tại New York, ở phố Fulton khu Brooklyn xuất hiện một họa sĩ tự do tên là Emil Robert Goldfus. Người đó chính là "Mark". Ông đã thiết lập và lãnh đạo nhiều điệp viên do chính ông tuyển chọn, tự tạo ra những mã số để thường xuyên liên lạc với trung tâm và hoạt động cực kỳ hiệu quả trong một thời gian dài.

Trong mạng lưới này có vợ chồng Morris Cohens và Lona. Lona là người rất thông minh, sáng tạo trong việc thu thập các thông tin từ Trung tâm hạt nhân Los Alamos của Mỹ. Nhờ có "Mark" và nhóm tình báo của ông mà Liên Xô đã rút ngắn đáng kể thời gian để chế tạo thành công bom nguyên tử. Nhóm của "Mark" cũng thông tin cho Liên Xô về việc Mỹ chuẩn bị Thế chiến III, về kế hoạch ném 300 quả bom nguyên tử xuống lãnh thổ Liên Xô, trong đó Moscow và Leningrad mỗi thành phố sẽ bị ném 8 quả.

Bắt giữ Rudolf Abel

Để nhóm của "Mark" hoạt động thêm hiệu quả, Moscow cử thượng tá KGB Konstantin Ivanov đến New York. Fisher đưa cho ông ta một số tiền lớn để thành lập studio chụp ảnh cũng như để giúp đỡ vợ của một điệp viên đã bị bắt. Nhưng viên thượng tá KGB khi sang đến phương Tây chỉ biết chi tiền vào việc chơi bời gái và rượu chè khiến mạng lưới tình báo ở đây đứng trước nguy cơ bại lộ. Mùa hè năm 1955, Fisher trở về Nga để nghỉ ngơi. Khi biết Konstantin Ivanov đang hủy hoại mạng lưới tình báo ở New York, KGB quyết định gọi ông ta trở về, nhưng Ivanov chống lệnh và đã phản bội, khai báo về Mark đồng thời còn hứa hẹn sẽ hợp tác với Cục Tình báo Mỹ (CIA).

Vào năm 1957, Mark bị các nhân viên của Cục Điều tra liên bang Mỹ (FBI) bắt giữ tại khách sạn. Trong lúc đó, lãnh đạo Liên Xô tuyên bố rằng, họ không bao giờ cho phép "hoạt động gián điệp" chống lại nước khác. Để thông báo cho trung tâm về việc mình bị bắt giữ, Fisher khai mình tên là Rudolf Abel, cũng là một tình báo viên, nhưng đã hy sinh khi làm nhiệm vụ. Khi báo chí đăng tải về việc bắt giữ Rudolf Abel, Moscow hiểu ngay là Viliam Fisher đã bị sa lưới.

Trong quá trình điều tra, Viliam Fisher luôn phủ nhận mình là tình báo, từ chối đưa ra các bằng chứng tại tòa và không nghe theo các lời dụ dỗ của CIA để phản bội tổ quốc. Ông bị kết án 32 năm tù và bị biệt giam tại một nhà tù ở New York, sau đó bị chuyển đến nhà tù liên bang ở Atlanta. Trong tù, Viliam Fisher nghiên cứu lý thuyết toán học, nghệ thuật và hội họa.

Trở về quê hương
Francis Powers - viên phi công được phía Liên Xô dùng để đổi lấy Rudolf Abdel.

Ngày 10/2/1962, trên cây cầu Glienicker tại biên giới Đông và Tây Berlin đã diễn ra cuộc trao đổi tù nhân lịch sử giữa Mỹ và Nga. Viliam Fisher được tự do để phía Mỹ nhận lại viên phi công Francis Powers bị phía Liên Xô bắn rơi ngày 1/5/1960 tại vùng Sverdlov. Francis Powers bị buộc tội làm gián điệp và bị phía Liên Xô xử án 10 năm tù. Sau khi nghỉ ngơi và chữa bệnh, Fisher trở lại làm việc trong bộ máy đầu não Liên Xô, tham gia vào việc đào tạo các tình báo viên trẻ.

Cuộc đời của Viliam Fisher là nguồn hứng khởi để nhà văn V.Kozevnikov viết nên thiên truyện nổi tiếng Thanh kiếm và lá chắn (đã được dựng thành phim). Tuy nhân vật chính là Aleksandr Belov gợi nhớ đến tên Abel, nhưng nội dung của cuốn sách khác khá xa với đời thực của Abel-Fisher.

Vì những đóng góp lớn lao cho tổ quốc, đại tá Viliam Fisher được tặng 3 huân chương Sao Đỏ, huân chương Lênin, huân chương Chiến tranh Vệ quốc hạng nhất cùng nhiều huân huy chương khác. Vào ngày 15/11/1971 ông qua đời và được chôn cất tại nghĩa trang Donsky ở Moscow.

(Thanh Niên)

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Các giai đoạn chính trong quá trình phát sinh loài người

Quá trình phát sinh loài người đã trải qua các giai đoạn chính sau đây: vượn người hoá thạch, người tối cổ (người vượn), người cổ và người hiện đại. Quá trình này đã được chứng minh bằng các hoá thạch phát hiện ngày càng đầy đủ. I/.CÁC DẠNG VƯỢN NGƯỜI HÓA THẠCH Dạng vượn người hoá thạch cổ nhất là Parapitec sống ở giữa kỷ Thứ ba, cách đây khoảng 30 triệu năm. Đây là một loài khỉ mũi hẹp, bằng con mèo, có đuôi, mặt khá ngắn, hộp sọ khá lớn, sử dụng chi trước vào nhiều hoạt động như cầm nắm thức ăn, bóc vỏ quả cây. Từ Parapitec đã phát sinh ra vượn, đười ươi ngày nay và Đriôpitec đã tuyệt diệt. Một nhánh con cháu của Đriôpitec dẫn tới gôrila và tinh tinh. Một nhánh khác dẫn tới loài người, qua một dạng trung gian đã tuyệt diệt là Ôxtraôpitec sống ở cuối kỷ Thứ ba, cách đây hơn 5 triệu năm. Chúng đã chuyển hẳn xuống mặt đất, đi bằng 2 chân sau, mình hơi khom về phía trước. Chúng sống giữa thảo nguyên trống trải, cao 120 – 140cm, nặng 20 – 40kg, sọ 500 – 600cm3. Chúng đã biết sử dụng cành

Vì sao con người thích thử nghiệm cái mới?

Các nhà khoa học đã xác định được một vùng não khiến chúng ta có máu phiêu lưu. Kết quả có thể giúp lý giải vì sao mọi người luôn bị thu hút bởi những món hàng mới khi đi mua sắm. Khi chụp ảnh não để đo dòng máu chảy, các nhà nghiên cứu Anh đã phát hiện một vùng não, gọi là thể vân bụng, hoạt động nhiều hơn khi chủ thể chọn một đồ vật mới lạ trong cuộc kiểm tra. Vùng não này liên quan tới việc xử lý các phần thưởng thông qua việc thải ra các truyền dẫn thần kinh như dopamine. Các nhà khoa học tin rằng sự tồn tại của cơ chế tặng thưởng lâu đời này chứng tỏ có một lợi thế tiến hóa trong việc thử nghiệm những điều chưa được biết. "Tìm kiếm một cảm giác mới lạ là một xu hướng hành vi cơ bản ở con người và động vật. Việc thử nghiệm những lựa chọn mới sẽ mang lại những lợi ích lâu dài", Bianca Wittmann tại Đại học College London, Anh, nhận định. Tuy nhiên, liều lĩnh cũng mang lại rủi ro. Một số lựa chọn có thể gây nguy hiểm, và ở thế giới hiện đại, chọn lựa những thứ mới sẽ khiến n